Những điều cần biết về sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu là tình trạng sỏi hình thành trong đường tiết niệu, đây là một tình trạng bất thường sức khỏe cần được phát hiện kịp thời và chữa trị đúng cách. Vậy sỏi tiết niệu là gì? Có mấy loại sỏi tiết niệu? Điều trị sỏi tiết niệu như thế nào? Hãy cùng Docosan tìm hiểu trong bài viết dưới đây!

Tổng quan

 Tổng quan về sỏi tiết niệu
Tổng quan về sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu là những khối cứng hình thành trong đường tiết niệu và có thể gây đau, chảy máu, nhiễm trùng hoặc cản trở dòng chảy của nước tiểu.

Những viên sỏi nhỏ có thể không gây ra triệu chứng gì, nhưng những viên sỏi lớn hơn có thể gây đau dữ dội ở vùng giữa xương sườn và hông ở lưng.

Thông thường, xét nghiệm hình ảnh và phân tích nước tiểu được thực hiện để chẩn đoán sỏi.

Đôi khi sự hình thành sỏi có thể được ngăn ngừa bằng cách thay đổi chế độ ăn hoặc uống đủ nước so với nhu cầu cơ bản của cơ thể.

Sỏi tiết niệu bắt đầu hình thành trong thận và có thể to ra trong niệu quản hoặc bàng quang. Tùy thuộc vào vị trí của sỏi, nó có thể được gọi là sỏi thận, sỏi niệu quản hoặc sỏi bàng quang.

Một số lượng lớn người phải nhập viện vì sỏi tiết niệu, tuy nhiên chúng phổ biến hơn ở người trung niên và người lớn tuổi. Các viên sỏi có kích thước khác nhau, từ quá nhỏ không thể nhìn thấy bằng mắt thường đến đường kính từ 2,5 cm trở lên.

Các loại sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu được tạo thành từ sự tích tụ các khoáng chất trong nước tiểu tạo thành các tinh thể. Khoảng 85% thành phần sỏi tiết niệu là canxi, và phần còn lại bao gồm các chất khác nhau, bao gồm axit uric, cystine hoặc sỏi nhiễm trùng — một hỗn hợp magiê, amoni và phosphate và chúng được hình thành bởi nước tiểu bị nhiễm trùng.

Nguyên nhân của sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu có thể hình thành do nước tiểu quá bão hòa với muối hoặc do nước tiểu thiếu các chất ức chế tạo thành sỏi bình thường. Citrate là một chất ức chế vì nó thường liên kết với canxi – một khoáng chất có liên quan đến việc hình thành sỏi tiết niệu.

Sỏi tiết niệu phổ biến hơn ở những người bị một số rối loạn nhất định (ví dụ, cường cận giáp, mất nước và nhiễm toan ống thận), ở những người có chế độ ăn uống giàu protein nguồn động vật hoặc vitamin C hoặc những người không tiêu thụ đủ nước hoặc canxi. Những người có tiền sử sỏi tiết niệu trong gia đình có nhiều khả năng bị mắc bệnh này hơn. Những người đã trải qua phẫu thuật để giảm cân cũng có thể tăng nguy cơ hình thành sỏi.

Hiếm khi, thuốc (bao gồm indinavir) và các chất trong chế độ ăn uống (như melamine) gây ra sỏi.

Các triệu chứng của sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu, đặc biệt là những viên nhỏ, có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Sỏi trong bàng quang có thể gây đau bụng dưới. Sỏi làm tắc nghẽn niệu quản hoặc bể thận hoặc bất kỳ đường ra nào của thận có thể gây đau lưng hoặc cơn đau quặn thận.

Đau quặn thận có biểu hiện đau quặn từng cơn, thường ở vùng giữa mạng sườn và bên hông, đau lan khắp bụng và thường kéo dài ra vùng sinh dục. Cơn đau từng cơn, tăng dần đến cường độ cao nhất, sau đó giảm dần, trong khoảng 20 đến 60 phút. Cơn đau có thể lan xuống bụng về phía bẹn hoặc tinh hoàn, âm hộ.

Các triệu chứng khác bao gồm buồn nôn và nôn, bồn chồn, đổ mồ hôi và có máu hoặc có sỏi hoặc một mảnh sỏi trong nước tiểu. Một người có thể có cảm giác muốn đi tiểu thường xuyên, đặc biệt là khi một viên sỏi đi xuống niệu quản. Đôi khi xảy ra ớn lạnh, sốt, nóng rát hoặc đau khi đi tiểu, nước tiểu đục, có mùi hôi và sưng bụng.

Chẩn đoán sỏi tiết niệu

Các bác sĩ thường nghi ngờ sỏi ở những người bị đau quặn thận. Đôi khi các bác sĩ nghi ngờ sỏi tiết niệu ở những người bị đau ở lưng và háng hoặc đau ở vùng sinh dục mà không rõ nguyên nhân.

Tìm thấy máu trong nước tiểu hỗ trợ chẩn đoán, nhưng không phải tất cả các loại sỏi tiết niệu đều gây ra tiểu ra máu. Các bác sĩ cần phân biệt sỏi với các nguyên nhân khác có thể gây ra đau bụng dữ dội, bao gồm:

  • Viêm phúc mạc, có thể do viêm ruột thừa, chửa ngoài tử cung hoặc bệnh viêm vùng chậu
  • Bệnh viêm túi mật cấp tính
  • Tắc ruột
  • Viêm tụy
  • Mổ phình động mạch chủ

CT scan không cản quang thường là quy trình chẩn đoán tốt nhất, có thể xác định đúng vị trí của một viên sỏi và cũng cho biết mức độ gây tắc nghẽn đường tiết niệu của sỏi gây ra. CT cũng có thể phát hiện nhiều rối loạn khác có thể gây ra cơn đau tương tự như cơn đau do sỏi gây ra.

Siêu âm là một phương pháp thay thế cho CT scan. Tuy nhiên, siêu âm thường bỏ sót những  viên sỏi nhỏ (đặc biệt là khi nằm trong niệu quản), khó xác định vị trí chính xác của tắc nghẽn đường tiết niệu và các rối loạn nghiêm trọng khác.

Chụp X-quang bụng thì chẩn đoán sỏi kém chính xác hơn nhiều và chỉ có thể cho thấy sỏi canxi. Khi các bác sĩ nghi ngờ bệnh nhân có sỏi canxi, chụp X-quang là một phương pháp thay thế để xác nhận sự hiện diện của viên sỏi hoặc để xem sỏi đã di chuyển bao xa xuống niệu quản.

Chụp niệu đồ bài tiết (trước đây được gọi là chụp niệu đồ tĩnh mạch hoặc chụp ảnh niệu đồ tĩnh mạch) là một loạt các hình ảnh chụp X-quang được thực hiện sau khi tiêm vào tĩnh mạch thận một chất cản quang. Xét nghiệm này có thể phát hiện sỏi và xác định chính xác mức độ chúng gây tắc nghẽn đường tiết niệu, nhưng tốn nhiều thời gian và có rủi ro khi tiếp xúc với chất cản quang (ví dụ, phản ứng dị ứng hoặc suy thận nặng hơn). Các bác sĩ hiếm khi sử dụng phương pháp chụp niệu quản bài tiết để chẩn đoán sỏi nếu có sẵn CT hoặc siêu âm.

Xét nghiệm phân tích nước tiểu thường được thực hiện. Nó có thể cho thấy máu hoặc mủ trong nước tiểu cho dù có hoặc không có triệu chứng.

Phòng ngừa sỏi tiết niệu

Ở một người lần đầu tiên mắc một viên sỏi canxi, khả năng hình thành một viên sỏi khác là khoảng 15% trong vòng 1 năm, 40% trong vòng 5 năm và 80% trong vòng 10 năm. Các biện pháp ngăn ngừa sự hình thành sỏi mới khác nhau, tùy thuộc vào thành phần của những viên sỏi hiện có.

Uống một lượng lớn nước lọc 8 đến 10 ly (300 ml) mỗi ngày được khuyến khích để ngăn ngừa tất cả các loại sỏi. Mọi người nên uống đủ chất lỏng để tạo ra hơn 2 lít nước tiểu mỗi ngày. Các biện pháp phòng ngừa khác phụ thuộc phần nào vào loại sỏi tiết niệu.

Sỏi canxi

Những người bị sỏi canxi có thể có một tình trạng gọi là tăng canxi niệu, trong đó lượng canxi dư thừa được bài tiết qua nước tiểu. Đối với những người này, các biện pháp làm giảm lượng canxi trong nước tiểu có thể giúp ngăn ngừa hình thành sỏi mới. Một trong những biện pháp đó là chế độ ăn ít natri và nhiều kali. Bên cạnh đó, nguy cơ hình thành sỏi mới thực sự cao hơn nếu chế độ ăn uống chứa quá ít canxi, vì vậy mọi người không nên cố gắng loại bỏ canxi khỏi chế độ ăn uống của mình.

Hạn chế protein động vật trong khẩu phần ăn có thể giúp giảm canxi niệu và nguy cơ hình thành sỏi ở nhiều người bị sỏi canxi.

Mức độ cao oxalat trong nước tiểu, góp phần hình thành sỏi canxi, có thể là do tiêu thụ quá mức thực phẩm giàu oxalat, chẳng hạn như đại hoàng, rau bina, ca cao, quả hạch, hạt tiêu và trà, hoặc do một số rối loạn đường ruột (bao gồm một số các loại phẫu thuật giảm cân).

Trong một số trường hợp hiếm hoi, khi sỏi canxi do cường cận giáp, bệnh sarcoid, nhiễm độc vitamin D, nhiễm toan ống thận hoặc ung thư, thì phải điều trị rối loạn cơ bản.

Sỏi axit uric

Sỏi axit uric hầu như luôn luôn được gây ra bởi lượng axit uric quá mức trong nước tiểu. Tất cả những người bị sỏi axit uric nên dùng Kali citrate để làm kiềm hóa nước tiểu và trung hòa nồng độ axit cao gây ra sỏi axit uric. Đôi khi, chế độ ăn ít protein động vật hoặc allopurinol có thể được sử dụng để giảm nồng độ axit uric trong nước tiểu. Uống đủ nước cũng rất quan trọng.

Sỏi tiết niệu cystine

Đối với sỏi làm bằng cystine, nồng độ cystine trong nước tiểu phải được giữ ở mức thấp bằng cách duy trì một lượng lớn chất lỏng và đôi khi dùng alpha-mercaptopropionylglycine (tiopronin) hoặc penicillamine.

Sỏi tiết niệu nhiễm trùng

Những người bị sỏi nhiễm trùng tái phát có thể phải dùng thuốc kháng sinh liên tục để ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu. Axit acetohydroxamic cũng có thể hữu ích ở những người bị sỏi nhiễm trùng.

Điều trị sỏi tiết niệu

Những viên sỏi nhỏ không gây triệu chứng, tắc nghẽn đường tiết niệu hoặc nhiễm trùng thường không cần điều trị và thường tự khỏi. Những viên sỏi lớn hơn (trên 5 mm) và những viên gần thận thì ít có khả năng tự đào thải hơn. Một số loại thuốc (tamsulosin hoặc thuốc chẹn kênh canxi) có thể làm tăng khả năng hình thành sỏi tự phát.

Giảm đau

Cơn đau quặn thận có thể thuyên giảm khi dùng NSAID. Nếu cơn đau nghiêm trọng, đôi khi cần dùng opioid.

Các chiến lược vượt qua sỏi tiết niệu

Uống nhiều nước hoặc truyền một lượng lớn dịch qua đường tĩnh mạch đã được khuyến khích để giúp sỏi tự đào thải, nhưng không rõ rằng cách tiếp cận này có hữu ích hay không. Thuốc chẹn alpha-adrenergic (chẳng hạn như tamsulosin) có thể giúp thải sỏi. Khi sỏi tự đào thải, không cần điều trị cụ thể nào khác.

Phẫu thuật sỏi tiết niệu

Đôi khi khi tình trạng tắc nghẽn nghiêm trọng, các bác sĩ sẽ luồn một ống (stent) tạm thời vào niệu quản để lấy viên sỏi ra ngoài. Các bác sĩ đưa một dụng cụ quan sát (cystoscope, một loại ống nội soi) vào bàng quang và đưa stent qua ống soi bàng quang và vào lỗ mở của niệu quản. Stent được đẩy lên qua vị trí viên sỏi kẹt và nong ra. Stent được giữ nguyên cho đến khi có thể lấy sỏi ra được (ví dụ, bằng phẫu thuật).

Ngoài ra, các bác sĩ có thể dẫn lưu sự tắc nghẽn bằng cách đưa một ống dẫn lưu qua phía sau vào thận (ống cắt thận).

Các phương pháp loại bỏ sỏi tiết niệu

Thông thường, tán sỏi bằng sóng xung kích có thể được sử dụng để phá vỡ sỏi trong bể thận hoặc phần trên cùng của niệu quản có đường kính (1 cm) trở xuống. Các mảnh sỏi tiết niệu sau đó được đi qua nước tiểu. Đôi khi, sỏi được lấy ra bằng kềm sử dụng ống nội soi qua một vết rạch nhỏ trên da, hoặc sỏi có thể bị vỡ thành nhiều mảnh bằng đầu dò từ máy tán sỏi và sau đó các mảnh này được đưa qua nước tiểu. Đôi khi, tia laser được sử dụng để phá vỡ sỏi tiết niệu.

Một ống soi niệu quản được đưa vào niệu đạo, qua bàng quang và lên niệu quản để loại bỏ những viên sỏi nhỏ ở phần dưới của niệu quản. Trong một số trường hợp, nội soi niệu quản cũng có thể được sử dụng với một thiết bị để phá vỡ sỏi thành những mảnh nhỏ hơn có thể được lấy ra bằng ống soi niệu quản hoặc truyền qua nước tiểu.

Phương pháp tán sỏi thận qua da có thể được sử dụng để loại bỏ một số viên sỏi thận lớn hơn. Trong phẫu thuật cắt thận qua da, các bác sĩ sẽ rạch một đường nhỏ ở lưng của người bệnh và sau đó đưa một ống quan sát bằng kính thiên văn (được gọi là ống soi thận, một loại nội soi) vào thận. Các bác sĩ đưa một đầu dò qua ống soi thận để phá vỡ sỏi thành các mảnh nhỏ hơn và sau đó lấy ra các mảnh (tán sỏi thận).

Làm cho nước tiểu có tính kiềm hơn (ví dụ, với kali citrate uống trong 4 đến 6 tháng) đôi khi có thể làm tan dần sỏi axit uric. Các loại sỏi tiết niệu khác không thể bị hòa tan theo cách này.

Đôi khi cần phẫu thuật cắt bỏ đối với những viên sỏi lớn hơn gây tắc nghẽn.

Phẫu thuật nội soi thường được sử dụng để loại bỏ sỏi nhiễm trùng. Thuốc kháng sinh không hữu ích trong việc điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu cho đến khi sỏi nhiễm trùng được loại bỏ hoàn toàn.

Đặt stent niệu quản là việc đặt một ống rỗng mềm để giúp nước tiểu thoát từ thận xuống bàng quang. Có thể cần đặt stent niệu quản trong một hoặc hai tuần sau khi thực hiện thủ thuật lấy sỏi. Kích ứng từ sỏi tiết niệu hoặc từ thủ thuật loại bỏ có thể gây ra một số viêm niệu quản. Stent giúp giải quyết tình trạng viêm nhiễm.

Kết luận

Sỏi tiết niệu không được phát hiện và chữa trị kịp thời có thể đưa đến những biến chứng nghiêm trọng như suy thận, thận ứ nước, nhiễm trùng…Vì vậy cần chủ động tầm soát sỏi tiết niệu, cũng như giữ một lối sống lành mạnh để phòng bệnh và cải thiện sức khỏe hệ tiết niệu nói riêng, cũng như cơ thể của bạn nói chung.

Cảm ơn bạn đã dành thời gian để đọc và tìm hiểu Những điều cần biết về sỏi tiết niệu tại Docosan. Chúng tôi rất vinh hạnh chào đón và nhận được sự tín nhiệm từ các bạn.

Bài viết được tham khảo bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn tại Docosan để điều trị.

Tài liệu tham khảo

Stones in the Urinary Tract – Kidney and Urinary Tract Disorders – MSD Manual Consumer Version
https://www.msdmanuals.com/home/kidney-and-urinary-tract-disorders/stones-in-the-urinary-tract/stones-in-the-urinary-tract